Dịch giả, nhà văn Nguyễn Bích Lan - Tấm gương vượt khó đầy ý chí và nghị lực
Trong cuộc sống, khó khăn đã
khiến nhiều người gục ngã, nhưng cũng có người coi những chuyện không may xảy
đến là một cơ hội để vượt lên chính mình, họ xem “đêm tối” đến là cơ hội để họ
có thể được ngắm nhìn những vì sao đêm lấp lánh.
Có
những con người bằng ý chí và nghị lực, bằng niềm tin và sự lạc quan, họ đã
vượt qua mọi nghịch cảnh mà tưởng chừng như không thể. Bằng ngọn lửa khao khát
được sống, được cống hiến một cách mãnh liệt. Họ
đã vùng vẫy, đấu tranh thoát khỏi vòng vây của số phận nghiệt ngã để rồi họ đặt
bước chân trên lễ đài vinh quang. Họ là những bông hoa đẹp nhất tô sắc cho đời.
Một
trong những bông hoa đẹp ấy chính là dịch giả, nhà văn Nguyễn Bích Lan, người
luôn miệt mài với sự nghiệp sáng tác và dịch thuật, bất chấp nỗi đau đớn của
căn bệnh loạn dưỡng cơ để trở thành một dịch giả, nhà văn chuyên nghiệp.
Nhà
văn Nguyễn Bích Lan sinh năm 1976 tại Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, là con thứ hai
trong gia đình có 3 chị em.
Hồi
bé chị xinh xắn, dễ thương. Tuổi thơ chị đầy ấp tiếng cười đùa, những ngày cắp
sách đến trường của chị luôn đong đầy bóng chữ và một thế giới văn chương lung
linh mà chị đã đọc vụng trộm từ tủ sách của người ông, chị là cô bé ham học,
ham đọc; chị đọc tất cả những chữ mà chị nhìn thấy ở bất cứ đâu, từ mẫu giấy
báo cũ, chữ in trong sách giáo khoa, chữ nổi in trên đôi dép lê.
Có
hôm trống trường đã điểm từ lâu mà bà vẫn chưa thấy chị về nhà, lo có chuyện
không hay xảy ra, bà liền đi tìm và cuối cùng thấy chị đang mải mê đánh vần
những con chữ trên băng thông báo ở ủy ban xã. Chị ham học và cũng ham chơi.
Những
trò chơi thời thơ ấu như là vật nhau trên những đống rơm vẫn còn thơm nồng mùi
hương đồng nội đến trò thổi dây thun nhiều màu sắc làm cho quần áo, mặt mũi bị
lấm lem bụi bẩn. Tuổi thơ chị ham chơi tưởng chừng như quên cả ngày tháng. Và
có lẽ chăng trong tiềm thức sâu thẳm, có điều gì đó thúc giục chị hãy cứ vui
chơi theo ý muốn, cứ chơi hết mình, chơi bất cứ lúc nào có thể.
Chị
hồn nhiên đi qua tuổi thơ rồi chạm vào cánh cửa tuổi 13, tuổi thấp thoáng bóng
dáng người thiếu nữ, tương lai nào đang đợi chị - cô bé được khen là xinh xắn,
nhanh nhẹn, ham học và học giỏi?
Nhưng bỗng chốc sự bình yên sụp đổ, chôn vùi đi cảm xúc xốn xang mới vừa chớm
nở trong tâm hồn trong veo. Bánh xe cuộc đời chị đã quay ngoắt 180 độ, rẽ từ
con đường mang hai tiếng Hy vọng sang một lối khác đó là vực thẳm của sự tuyệt
vọng.
Lẽ
ra ở cái tuổi ấy cơ thể chị phát triển tiếp tục lớn, nhưng ngược lại chị lại
gầy đi, trong vòng chưa đầy ba tháng, chỉ mất đến 1/3 trọng lượng cơ thể, từ 40
kg mà bây giờ chỉ còn 28 kg. Những biểu hiện bất thường về vận động dần xuất
hiện, chị cảm thấy cơ thể mình trở nên cứng nhắc, và điều tồi tệ là chị không
thể chạy được nữa, cơ thể trở nên bủn rủn, run rẩy, hai cánh tay không còn cử
động dễ dàng, muốn lấy vật gì chị phải lấy tay này nâng tay kia để giữ vật đó
dù vật đó có nhẹ như quyển sổ, cây bút hay viên phấn mà mẹ chị làm rơi.
Chị
bắt đầu đối mặt với những cú ngã ngoài tầm kiểm soát, có khi đang bước đi bình
thường, chị bỗng khuỵu gối và ngã sóng xoài trên mặt đất, rồi nhiều lần đạp xe
đến trường, chị bị ngã nhào xuống ruộng mà không hiểu nguyên nhân vì sao.
Cứ
mỗi lần ngã, chị hoàn toàn không có khả năng chống đỡ, và phải xoay sở vất vả
mới gượng dậy được. Những cú ngã cứ liên tiếp xảy đến, những cú ngã không những
làm chị đau đớn về thể xác mà con đau đớn về cả tinh thần.
Sau
những cú ngã như thế, chị buồn lắm, chị âm thầm khóc, những lúc đó, con người
chị trở thành hai nữa, một nữa không muốn tiếp tục chịu đựng những cú ngã,
không muốn chịu đựng nỗi đau đớn và cảm giác xấu hổ, nữa còn lại cố gắng vươn
lên níu lấy niềm say mê học tập, niềm vui ở trường lớp, bạn bè. Hai nữa con
người chị đã đấu tranh quyết liệt và kết quả vì sự khao khát được sống đã giúp
cho phần thứ hai giành chiến thắng.
Giờ
đây, mỗi lần vào lớp học, chị phải bò, phải lết lên những bậc thềm dẫn vào lớp
học, mỗi lần như thế, nước mắt chị lại ứa ra, ý thức về sự khác biệt của bản
thân so với mọi người như một lưỡi dao cứa vào lòng chị. Tình trạng sức khỏe
của chị ngày càng tồi tệ hơn. Móng chân, móng tay thường xuyên bị gãy, tay
không thể giơ qua đầu, việc cầm một bát cơm ăn, hay đứng dậy cũng trở nên khó
khăn hơn.
Thế
giới trong chị dường như đang đảo lộn dữ dội mà chị không biết phải làm gì.
Nhiều lúc chị đứng một mình khóc thầm ở trong lòng, khóc trong buồn tủi, giận
dữ, mong mỏi. Chị cầu mong ông trời trả lại cho chị những khả năng bình thường
nhất của một con người.
Đến
mùa hè năm 1989, chị phải gác lại việc học vì những cơn ho bắt đầu xuất hiện,
nhiều lần bị ho đến ù tai, mệt rũ người đến nỗi không còn đứng vững, chị phải
bám víu từng song cửa sổ để giữ cho mình khỏi ngã, đêm về thì vật vã vì khó thở
như đang có bàn tay nào đó bóp nghẹt cuống phổi.
Qua
những lần xét nghiệm ở bệnh viện, bác sĩ cho biết chị bị viêm phế quản cấp
tính, nhưng nguyên nhân chính xác của sự suy giảm các cơ thì vẫn chưa được tìm
ra. Cứ mỗi ngày chị được tiêm thuốc hai lần, những mũi tiêm kháng sinh khiến
cánh tay chị đau buốt, nhưng chị không bao giờ khóc, con đê ngăn lại dòng nước
mắt chính vì sự suy nghĩ không nguôi về nỗi vất vả của bố mẹ đang ngày đêm ân
cần chăm sóc cho chị.
Chưa
kịp hồi phục sau đợt ho này, chị phải chống chọi với đợt ho khác. Lê đôi chân
mệt mỏi qua không biết bao nhiêu bệnh viện ở thành phố để tìm nguyên nhân căn
bệnh, cứ như thế kéo dài hết ngày này sang ngày khác. Chị chỉ mong một điều duy
nhất: Về nhà, được quay về ngôi nhà yên tĩnh giữa làng quê mộc mạc, được nằm
duỗi chân trên chiếc giường kê bên cửa sổ, và mặc kệ mọi thứ đang xảy ra.
Chị
ngã bệnh đúng vào lúc tuổi thanh xuân đẹp đẽ và đầy cảm xúc vừa mới mở ra trước
mắt. Từ một đứa con gái mới lớn phổng phao và hồng hào, chị trở thành cô bé gầy
yếu, xanh xao. Mỗi lần tình cờ thấy hình ảnh gầy mòn của mình trong gương là
mỗi lần chị có cảm giác ghét bỏ bản thân. Tất cả những mất mát đó, dù được nhìn
ở góc độ chân thực và khách quan nhất, cũng đủ khiến bất kỳ ai cũng dễ dàng rơi
vào tuyệt vọng.
Nhưng
sau một thời gian buồn tủi, chị dần dần hiểu ra rằng bởi vì chị vẫn còn sống,
vẫn còn ý thức được về sự tồn tại của mình, chị vẫn chưa mất đi tất cả. Chị
hiểu ra rằng chỉ cần được nhìn thấy ánh sáng của ngày mới đã là may mắn.
Chị
cố gắng suy nghĩ ít hơn về những gì mình đã mất và không thể lấy lại được, và
cố gắng tập nhìn vào những gì mình còn lại, những gì mình đang có trong tay.
Trong
lúc này, nguồn an ủi ấm áp duy nhất đối với chị là những cuốn sách văn học,
những tập truyện ngắn của nhà văn Maxim Gorky, tiểu thuyết của Stendal...
Những
năm tháng của tuổi 14, 15 của chị vẫn đang trôi đi trong một đường hầm tối tăm,
mờ mịt không một chút ánh sáng le lói. Và khi chuẩn bị bước sang tuổi 16, sự
sống của chị dường như đến hồi kết. Những đợt thuốc kháng sinh liều cao đã
không còn tác dụng, chị nằm bất động trên giường bệnh với trạng thái nữa tỉnh
nữa mê. Chị như chạm vào cánh cửa của cõi chết.
Trong
cơn mê chị thấy có một ông lão râu tóc bạc phơ, đôi mắt nghiêm nghị đến gần bên
chị, ông nhẹ nhàng đặt bàn tay ông lên trán chịm và nói điều gì đó chị nghe
không rõ. Chị ngỡ rằng đó là ông tiên nhưng thật ra đó là một ông thầy lang đến
bắt mạch cho chị. Chị được ông sắc cho 3 thang thuốc, uống hết 3 thang, chị
thoát khỏi cơn mê man, thoát khỏi lưỡi hái tử thần.
Sau
trận ốm ấy, chị vẫn không thể cử động được nhiều, khi ngồi chị phải tựa vào
khuôn ngực và bờ vai của người thân, những lúc như thế, chị thường dõi mắt qua
ô cửa sổ, nhìn những chiếc lá vẫy vẫy trong gió, lắng nghe tiếng chim lảnh lót,
tiếng người lao xao...mọi âm thanh của cuộc sống như một nỗ lực nhằm bám chặt
lấy sự sống vừa tìm lại được.
Rồi
chị bắt đầu tập đi ở cái tuổi 16. Chị kiên trì tập luyện mỗi ngày để tránh cơ
thể bị liệt. Chị ý thức rằng đó là một nhiệm vụ quan trọng để giúp chị duy trì
cuộc sống này.
Tuy
đã tạm khoát thỏi lưỡi hái tử thần, nhưng bây giờ là sự tồn tại của một tâm
trạng trống rỗng, thời gian trở nên dài lê thê mà không có cách nào giết chết
thời gian.
Thật
may cuối cùng một thay đổi cũng đã xảy ra, hay nói cho bay bổng là chị đã tìm
thấy ánh sáng trong đường hầm tối. Năm ấy là năm đầu tiên em trai chị bắt đầu
học Tiếng anh, ngồi học bài trong gian buồng riêng, những từ Tiếng anh như
những mảnh nhỏ của một cái gì đó rất thực, rất lạ lẫm, rất dễ gợi tò mò đã ào
ạt bay vào thế giới trống rỗng của chị.
Chị
chộp lấy chúng như 1 đứa trẻ chộp lấy món đồ lạ. Cứ thế ngày qua ngày, chị học
lỏm từng từ, lẩm nhẩm đọc cho đến khi thuộc lòng, rồi chị mượn sách của em
trai, mò mẫm từng mặt chữ, chép chúng lên những tờ lịch cũ, những bìa vở cũ.
Chị
mò mẫm tìm quy tắc phiên âm các từ, học các từ mới với sự hăng hái đầy ngớ
ngẩn. Những từ tiếng anh cứ nạp vào đầu và đến lúc nó trở nên rối rắm như một
căn phòng lộn xộn. Thế là chị suy nghĩ phải tìm ra phương pháp học đúng.
Chị
bắt đầu dựa vào cái khung chương trình của em trai chị đang học, mượn thêm
những tài liệu của người thân, chị tập đọc, đọc những mẫu truyện ngắn song ngữ
mượn từ người bạn, đọc những chữ trên vỏ hộp thuốc, trong những tờ hướng dẫn sử
dụng đồ điện. Đọc tất cả những gì mà chị bắt gặp.
Chị
lập thời khóa biểu tự học, cũng là để tự khép mình vào kỷ luật, mỗi ngày chị
đều dành 6 tiếng cho việc học tiếng Anh. Căn phòng 10m2 nơi chị ngồi học là một
thế giới riêng, thế giới ấy chỉ có chị và tiếng Anh.
Có
những lúc cơn đau, cơn chóng mặt không báo trước xảy đến khiến chị gục xuống
bàn học, những lúc như thế sự kỷ luật đã không vực dậy nổi mà chỉ có sự chịu
đựng vượt trên mọi giới hạn, niềm khát khao được sống và tình yêu của người
thân mới giúp chị gượng lên, có những buổi tối mùa đông rét cắt da, cảm giác rét
từ bên trong rét ra, cảm giác nặng trĩu trong lồng ngực khi phải hít vào những
luồng khí lạnh, cảm giác tê buốt vì lạnh ở mười đầu ngón chân khiến cái ý nghĩ
tạm dừng để lên giường ngay liên tục mời gọi.
Nhưng
chị cố gắng dùng ý chí dập tắt nó ngay, nếu chị không cứng rắn với chính mình
thì rất có thể chỉ sau mùa đông, chị sẽ quay về vạch xuất phát của con đường tự
học. Nếu cái buổi tối ấy, chị không quyết định lựa chọn đúng thì không thể có
ngày hôm nay, giữa ánh sáng của bình minh và hoàng hôn chỉ cách nhau có mỗi
bước chân là như thế.
Vừa
tự học vừa điều chỉnh phương pháp cho phù hợp. Cách ôn từ vựng của chị cũng khá
đặc biệt, chị gọi là “5 phút x từ”. Cứ mỗi đồ vật nào đó mà chị nhìn thấy, chị
đọc lên tất cả các từ tiếng anh mà vật đó gợi ra. Ví dụ như khi nhìn một bức
tranh trên tường, chị đọc tất cả các từ xuất hiện trong đầu chỉ màu sắc, xuất
xứ, đặc điểm, giá trị của bức tranh và phấn đấu lần sau phải nhiều từ hơn lần
trước.
Tự
học rồi tự kiểm tra. Sau 2 năm tự học, chị cũng có được lượng từ vựng kha khá,
nắm được cấu trúc của các mẫu câu thông dụng, viết những mẫu hội thoại, những
đoạn văn đơn giản, có thể đọc các mẫu truyện tiếng Anh mà không cần phải liên
tục tra từ điển.
Tuy
nhiên kỹ năng nghe và nói vẫn là khó khăn lớn nên chị cố gắng luyện tập thêm
phần nghe được dạy trên đài VOA, bản tin trên BBC. Những kênh này trở thành
người thầy thân thuộc của chị dù chưa lần nào gặp mặt.
Trong
một lần tình cờ được 1 người quen tặng cho mấy cuốn băng cassette nhạc nước
ngoài với những ca khúc trữ tình bất hủ, chị cảm giác như bị hút hồn, sung
sướng và say đắm khi nghe những tuyệt phẩm ấy, thế giới âm nhạc ấy mở ra khiến
chị cảm nhận con đường tự học gian nan của mình đã được bù đắp. Cảm nhận âm
thanh với những ca từ bất hủ giúp chị cảm thấy yêu đời hơn, hạnh phúc hơn khi
biết mình còn được sống trên thế giới này.
Ngày
ấy ở quê chị, có đứa trẻ nào biết tiếng Anh, dù chỉ chút ít, cũng là một sự lạ.
Một lần tình cờ, các em nhỏ đến nhà chị chơi, với con mắt tò mò của mình, các
em đổ dồn vào ô cửa sổ nhỏ nơi chị đang học, các em tự hỏi không biết có điều
gì hấp dẫn nơi căn phòng nhỏ ấy mà khiến chị say mê đến vậy.
Sau
khi tìm hiểu, các em mới biết là chị đang học Tiếng anh. Nghe nói chị đang học
tiếng Anh, các em lại càng tò mò hơn. Và một buổi chiều mùa hè ngày tiếp theo,
lần đầu tiên chị trở thành “cô giáo” mà nhà chị là lớp học, những học trò đầu
tiên cũng chính là các em nhỏ đã từng đến nhà chị chơi. Ban đầu, lớp học không
có bàn, không có ghế, học trò phải ngồi bệt trên sàn nhà, bảng đen là một tấm
cánh cửa bằng gỗ được sơn đen.
“Hello”
là từ tiếng Anh đầu tiên được chị viết bằng đôi bàn tay run run nhưng rất nắng
nót, rõ ràng, và khá tròn trĩnh. Dù chỉ mới học hết lớp 8 và không có bằng cấp
về tiếng Anh nhưng chị đã giúp các em trong làng làm quen với cái ngôn ngữ lạ
lẫm này, làm thỏa mãn sự háo hức của các em muốn biết thêm một ngôn ngữ mới.
Và
cũng chính buổi chiều hè ấy đã mở ra một trang mới của cuộc đời chị, chị có thể
kiếm được tiền bằng chính sức lao động của mình. Thù lao chị nhận được là những
tờ bạc có mệnh giá 500 đồng và 1.000 đồng cũ kỹ, nhàu nhò, thấm mồ hôi của
những người cha, người mẹ đối với chị thật quý giá. Đối với chị đó như một giấc
mơ, giấc mơ của một người đang mang căn bệnh nghiệt ngã chưa có thuốc chữa lại
có thể tự mình kiếm ra tiền.
Trước
sân nhà chị có một cây táo lớn. Mỗi năm cây đều cho ra trái sum suê. Học trò
của chị đã lấy cây táo ấy để đặt tên cho lớp học, cái tên rất đỗi thân thương
“lớp Cây táo”.
Mặc
dù khó khăn trong việc đi lại nhưng bằng tất cả sự chân thành, gần gũi, chị đã quên
đi nỗi đau của mình đang mang, quên đi sự nóng nực của mùa hè, và quên tất cả
những thiếu thốn của cô và trò gặp phải. Chị dồn tất cả lòng nhiệt tình, sự tận
tụy giúp đỡ từng em học trò tiếp thu tiếng Anh một cách tốt nhất.
Trong
những năm tháng làm công việc của người gieo chữ, chị có cơ hội cảm nhận được
sắc thái của một thứ cảm cao đẹp mà người ta gọi là “tình thầy trò”. Tình cảm
yêu mến, sự cảm thông và chia sẻ giữa thầy trò, có giàu lòng cảm thông, học trò
mới dễ dàng chấp nhận một cô giáo không được đào tạo chính quy, không có bằng
cấp. Tất cả đều in vào lòng chị mà không gì có thể xóa nhòa.
Trong
giờ học có khoảng cách giữa cô giáo và học trò đủ để việc dạy và học được nề
nếp, nhưng trong giờ chơi, khoảng cách ấy không còn nữa mà là tình cảm giữa
người chị gái của một đàn em, cùng vui đùa với nhau, cùng sẻ chia những trái
táo chua hái ở vườn nhà.
Những
lúc như thế, chị như sống lại tuổi của các em, các tuổi nhiều mơ mộng mà bệnh
tật đã cướp đi của chị. Học trò đến học ngày một đông hơn, không ngại những
ngày mưa gió, các em vẫn tham gia lớp học đều đặn. Đó là bài học lớn nhất mà
chị truyền lại cho các học trò của mình, bài học về tinh thần vượt khó.
Gần
mười năm sau, chị tạm nghỉ dạy 1 tuần để đi Hà Nội khám bệnh lại lần nữa với hy
vọng sau gần 10 năm, y học sẽ có những bước tiến, đã tìm ra phương thuốc điều
trị. Khi chị gặp được bác sĩ, và được kiểm tra một vài vận động của cơ thể thì
kết quả mà chị nhận được cũng là kết quả của mười năm trước “bệnh này không có
thuốc chữa đâu. Phải chờ!”
Câu
trả lời lạnh lùng của vị bác sĩ ấy như xé nát con tim của chị. Chị đã khóc thét
lên, khóc cho cả mười năm trời chịu đựng, cho những hy vọng, những ước mơ mà
chị ấp ủ về cái ngày chị được khỏi bệnh, được đạp xe đi trên con đường làng đến
trường ngày nào, được ngắm những cánh đồng lúa, ruộng ngô xanh rì, được đến
những đồi thông Đà Lạt, thành phố của sự bình yên và xanh tươi, và được tốt
nghiệp ở một trường đại học nào đó. Chị khóc để chia tay hàng trăm hàng ngàn
giấc mơ nhỏ bé của mình.
Trở
về với thực tại, chị gạt đi nước mắt, chị ý thức rằng mình cần phải sống ý
nghĩa những ngày còn lại, chị lấy việc dạy học làm sự cứu rỗi cho mình. Có lần
một học trò hỏi chị: “Chị Lan có tin là có số phận không?”.
Chị
trả lời: “Chị tin rằng con người có số phận, nhưng chị cũng tin rằng con người
có thể quyết định số phận của mình”. Chị luôn sẵn sàng tinh thần ngay cả những
lúc bình yên nhất. Và cũng nhờ tình cảm gia đình, tình thầy trò đã nâng thêm
bước chân của chị trong cuộc sống đầy chông gai này.
Thử
thách cho số phận lại tiếp tục xảy đến với chị. Khi các học trò của chị chuẩn
bị bước vào kì thi tốt nghiệp, cũng là lúc chị rơi vào cơn mệt chưa từng thấy.
Chị được bác sĩ cho biết là chị bị suy tim độ 2. Cơn mệt cứ kéo dài suốt cả
ngày, cả tuần. Có thuốc thì cảm giác mệt vơi đi phần nào, lúc thuốc hết tác
dụng chị lại rơi vào cơn mệt khủng khiếp.
Thời
gian này, được sống là niềm khát khao mãnh liệt nhất với chị, dù chỉ thêm 1
ngày, chỉ cần được sống để nhìn thấy ánh mặt trời của ngày mới cũng đã là hạnh
phúc. Sức khỏe chị yếu dần, lớp học cây Táo cũng dừng lại, ngày của chị giờ bị
bao trùm bởi sự im lặng, đợi những cơn mệt qua đi, từng ngày từng ngày.
Thời
gian chậm chậm trôi đi trong sự chờ đợi cho đến một ngày may mắn một lần nữa
cũng mỉm cười với chị, chị được người thân sắc thuốc bắc cho uống, sức khỏe của
chị đã đỡ được phần nào, chị hạnh phúc như muốn vỡ òa khi mình có thể nhìn lên
bầu trời mà không còn cảm giác mệt.
Từ
cảm xúc quá đỗi dâng trào, chị đã viết nên những ca từ thật đẹp bằng những lời
hát ru trĩu nặng yêu thương và tình yêu cuộc sống tha thiết trong bài thơ “Ngày
mới”: Có “con chim nhỏ” với “gió đồi”, có “chợ gạo” đầy “mùa no”, có “giọt
sương” còn trên “búp”, có “tình người” với nghĩa cử cao đẹp “cho” và “nhận” ...
Tất cả đã tạo nên một bức tranh đẹp nhất của sự sống.
Bây
giờ sức khỏe của chị không cho phép chị dạy học được nữa, sự trống rỗng của
thời gian lại bao trùm lên căn phòng nhỏ của chị. Chị muốn được làm việc, để
tránh lãng phí thời gian trôi đi vô ích. Chị tập viết truyện ngắn để giải khuây
tinh thần, cũng là cách để gởi gắm những hy vọng vào tương lai. Chị luôn hy
vọng một tương lai tươi sáng hơn sẽ mở ra với chị
Trong
một lần về thăm quê, cô của chị nhận thấy năng khiếu văn chương và vốn kiến
thức tiếng Anh nên đã hướng chị dịch sách văn học nước ngoài. Người ta thường
nói nếu bạn chịu khó gõ cửa, thì cửa sẽ mở kể cả cánh cửa cuộc đời.
Và
điều đó đã trở thành hiện thực với chị. Bắt đầu bước vào ngã rẻ mới của cuộc
đời, với vai trò là người chuyển ngữ, chị đã trải qua bao khó khăn, thử thách
để cuối cùng cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tựa đề “Đừng nghi ngờ tình yêu của
anh” (nguyên tác tiếng Anh “Never Doutb My Love”) cũng đã được xuất bản.
Ngày
cầm cuốn sách dịch đầu tay của mình giống như một giấc mơ mà chị chưa bao giờ
dám mơ tới. Thành công từ cuốn sách đầu tay đã khích lệ tinh thần chị và rồi
đến cuốn thứ hai, thứ ba, thứ tư liên tiếp được xuất bản. Mỗi cuốn là một câu
chuyện, một thế giới, một trải nghiệm văn chương riêng biệt.
Dịch
văn học vốn dĩ không phải là điều dễ dàng, với vai trò là người chuyển ngữ chị
phải truyền tải đúng ý mà tác giả muốn nói với người đọc, và luôn có những cái
bẫy giăng ra để bẫy sự cẩu thả, vội vàng, sự lười suy nghĩ, sự thiếu kiến thức,
thiếu khiêm nhường, thiếu tinh thần trách nhiệm và sự thiếu tập trung.
Bằng
niềm đam mê, sự kiên trì đã giúp chị vượt qua được những điều đó, dù thể lực
của chị vẫn rất yếu và thỉnh thoảng bệnh tim lại tái phát gây ra những cơn mệt
khủng khiếp.
Chị
hạnh phúc khi được dịch sách, được truyền những thông điệp có ý nghĩa cao đẹp
của tác giả đến với bạn đọc, được biểu lộ cảm xúc, tình cảm, quan niệm trong bề
rộng và độ sâu của thế giới ngôn ngữ và được tìm kiếm sự đồng cảm hoặc phản
biện từ phía người đọc. Đó là niềm hạnh phúc được chia sẻ, được cho đi và được
nhận lại.
Thời
gian sau, chị có cơ hội làm quen với máy tính, bây giờ chị tập đánh máy, công
việc dịch sách của chị cũng đã đỡ vất vả hơn khi phải viết tay bản thảo.
Cuối
năm 2004, chị gặp trở ngại trên con đường dịch thuật. Năm đó nước ta ký Công
ước Berne về bảo hộ bản quyền, không được nhà xuất bản giao sách cho chị dịch
nữa nhưng không muốn bỏ nghề, không muốn từ bỏ niềm đam mê của mình, chị đã mày
mò tự tìm sách, tự liên lạc với tác giả để giao dịch bản quyền.
Cuốn
“Vũ điệu trái tim” (nguyên tác tiếng Anh “Dance with Your Heart”) là cuốn sách
đầu tiên chị dịch sau khi Việt Nam gia nhập Công ước Berne và là cuốn sách mở
ra hướng đi mới cho con đường dịch thuật văn học của chị. Hướng đi đó là được
chủ động chọn những cuốn sách mình thích để dịch mà không cần đợi nhà xuất bản
giao sách để dịch.
Năm 2010,
bản dịch “Triệu phú khu ổ chuột” được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam
đánh dấu mốc son thành công của cuộc đời dịch thuật của chị.
Từ
tinh thần vượt khó không biết mệt mỏi của một người mang bệnh nan y, không thể
đến trường, đã tự học bằng mọi cách có thể để trở thành dịch giả chuyên nghiệp.
Và cũng năm ấy, chị trở thành một trong tám người phụ nữ đương đại được Bảo
tàng Phụ Nữ Việt Nam tôn vinh; đứng cạnh những người phụ nữ thành công lớn lao
trong sự nghiệp như nhà ngoại giao Tôn Nữ Thị Ninh, bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc
Phượng - giám đốc bệnh viện Từ Dũ, nhà thiết kế áo dài Nguyễn Thị Minh Hạnh…
Tất
cả những người phụ nữ ấy đều có một điểm chung là tinh thần tận hiến vượt trên
hoàn cảnh của mình và đều góp phần khẳng định vai trò của nữ giới trong xã hội.
Con đường từ thế giới bị bó hẹp giữa bốn bức tường của căn phòng 10m2 đến một
viện bảo tàng lớn là một đường kẻ bất ngờ của cuộc đời mà chị chưa từng nghĩ
đến. Chị đã làm tất cả những gì có thể để tự cứu mình. Và phép mầu đã sinh ra
từ cuộc sống, từ chính nỗ lực ấy của chị.
Sau
này, chị có dịp dịch cuốn tự truyện của diễn giả người Úc Nick Vujicic, một
người bị khuyết thiếu tứ chi, chỉ có một mẩu bàn chân trái với hai ngón chân dị
dạng nhưng anh đã vượt qua sự thất vọng, mặc cảm và khó khăn chồng chất để tồn
tại, sống một cuộc sống ý nghĩa nhất của một con người, một cuộc sống không
giới hạn. Chàng trai Nick đã khích lệ thêm tinh thần cho chị về sự phi thường
của trí tuệ, ý chí và lòng nhân ái.
Giờ
đây chị chọn con đường dịch thuật làm lẽ sống, làm hạnh phúc cho mình. Dù con
đường ấy có lắm gian nan, thử thách, nhưng bằng lòng yêu đời, sự kiên nhẫn và
niềm tin vào chính mình, chị sẽ hoàn thành tốt đẹp cuộc hành trình.
Câu
chuyện về dịch giả, nhà văn Nguyễn Bích Lan đã để lại trong tôi nhiều bài học
sâu sắc, từ những gì chị tích lũy được qua hành trình sống của mình, tôi nghĩ
những người như chị có mặt trên đời này để chứng minh rằng cuộc sống này rất
đáng sống, rằng khó khăn dù to lớn đến đâu cũng không thể ngăn được chúng ta
sống một cuộc sống hữu ích, không thể ngăn cản chúng ta vươn tới hạnh phúc nếu
như chúng ta thực sự cố gắng.
Nếu
tôi đang đi trên một con đường và vì một chướng ngại vật nào đó mà tôi buộc
phải dừng lại, thì thay vì quay đầu xe để trở về điểm xuất phát hay là đổ lỗi
cho ai đã tạo ra nó mà việc đầu tiên tôi sẽ làm là chấp nhận thách thức và tìm
mọi cách để vượt qua nó.
Sự
tồn tại của khó khăn có lý do của nó. Khó khăn sẽ giúp con người ta trưởng
thành hơn. Vì vậy, thay vì né tránh khó khăn, tôi chấp nhận nó như một cơ hội
giúp tôi hoàn thiện bản thân. Vượt qua được những khó khăn, thách thức ấy tôi
sẽ thấy cuộc sống, sự tồn tại của mình có ý nghĩa hơn, tôi sẽ yêu đời hơn và
cũng để hoàn thiện hơn trong sứ mệnh quan trọng nhất trên đời này: sứ mệnh làm
người.
Điều
thứ 2 mà tôi học được từ chị đó chính là chị đã chứng minh được điều “Không gì
là không thể”. Cuộc sống này không có giới hạn nào ngoài những giới hạn mà
chúng ta tự đặt ra cho chính mình, ai cũng có thể sống hạnh phúc nếu người đó
có đủ ý chí, đủ nghị lực và đủ tình yêu dành cho cuộc sống.
Dù
xuất phát điểm của bạn có khiêm tốn đến mức nào, nó cũng là điểm khởi đầu của
những điều lớn lao hơn, ý nghĩa hơn mà bạn sẽ gây dựng được nếu bạn thực sự cố
gắng tìm hiểu và rèn luyện trong một khoảng thời gian nhất định. Hãy luôn sống
hết mình cho ngày hôm nay và thanh thản đi về phía ngày mai.
Điều
thứ 3 mà tôi học được từ chị đó chính là muốn thành công trên đường đời, thì
chúng ta cần phải có người thầy để dẫn đường chỉ lối, để làm chỗ dựa niềm tin
cho ta vượt qua khó khăn phía trước. Chị đã tìm thấy người thầy tư tưởng của
mình qua những trang sách.
Không có nhận xét nào:
Để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, chúng tôi mong muốn các bạn sử dụng tiếng Việt có dấu. KHÔNG bình luận những lời lẽ thiếu văn hóa, những nội dung gây hiềm khích và những nội dung kích động khác